Bà Phạm Chi Lan: TPP sẽ gặp phải sự chống đối của các nhóm lợi ích ở VN
Người lao động làm việc tại một xưởng may ở ngoại ô Hà Nội. Nhiều nhà sản xuất nổi tiếng như Lever Style, có nhiều thân chủ có uy tín như nhãn hiệu Hugo Boss và J. Crew đã bắt đầu chuyển khâu sản xuất của họ từ miền Nam Trung Quốc sang Việt Nam trong mấy năm gần đây.
07.10.2015
Chuyên gia nghiên cứu kinh tế Việt Nam Phạm Chi Lan cho rằng Hiệp định TPP (Hiệp định Thương mại Đối tác Xuyên Thái Bình Dương) vừa đạt được giữa 12 quốc gia đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện ‘cuộc cải cách lần 2’, và theo bà, cuộc cải cách lần này chắc chắn sẽ gặp phải sự chống đối từ các nhóm lợi ích, buộc Việt Nam phải cân nhắc giữa lợi ích của các nhóm này với lợi ích của đông đảo người dân. Mời quý vị theo dõi chi tiết trong cuộc phỏng vấn sau đây giữa Khánh An của Ban Việt ngữ đài VOA với bà Phạm Chi Lan, thành viên của Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Việt Nam.
Nhấp vào để nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn
- Danh mục
- Tải
VOA: Thưa bà Phạm Chi Lan, khi TPP thành công, bà có nghĩ rằng Việt Nam là nước được hưởng lợi nhiều nhất không? Tại sao?
Bà Phạm Chi Lan: Khi người ta nói Việt Nam là nước được hưởng lợi nhiều nhất là do người ta dựa trên một vài nghiên cứu được công bố của các chuyên gia, chủ yếu là ở Hoa Kỳ, nói rằng khi tham gia TPP thì các nước thành viên đều có thể có sự tăng trưởng về xuất khẩu, về GDP…Khi so sánh với mức độ hiện nay, Việt Nam có thể có tỉ lệ tăng trưởng cao nhất. Tuy nhiên, tôi cho rằng nếu chỉ nhìn tỉ lệ tăng trưởng cao mà đánh giá Việt Nam được hưởng lợi nhiều nhất thì không đúng, không xác đáng.
Bà Phạm Chi Lan: Khi người ta nói Việt Nam là nước được hưởng lợi nhiều nhất là do người ta dựa trên một vài nghiên cứu được công bố của các chuyên gia, chủ yếu là ở Hoa Kỳ, nói rằng khi tham gia TPP thì các nước thành viên đều có thể có sự tăng trưởng về xuất khẩu, về GDP…Khi so sánh với mức độ hiện nay, Việt Nam có thể có tỉ lệ tăng trưởng cao nhất. Tuy nhiên, tôi cho rằng nếu chỉ nhìn tỉ lệ tăng trưởng cao mà đánh giá Việt Nam được hưởng lợi nhiều nhất thì không đúng, không xác đáng.
Việt Nam có được tỉ lệ cao chủ yếu là bởi vì Việt Nam có điểm xuất phát thấp. Ví dụ như GDP của Việt Nam hiện nay là quy mô nhỏ nhất, tính theo bình quân đầu người, trong 12 nước thành viên TPP. Cho nên Việt Nam có thể có tốc độ tăng cao so với chính mình, nhưng ngay cả có tăng với tốc độ cao thì khoảng cách giữa Việt Nam và các nước thành viên khác của TPP vẫn còn rất lớn. Mỗi 1% tăng trưởng của Việt Nam là rất nhỏ so với các nước thành viên TPP khác.
Khi người ta nói Việt Nam là nước được hưởng lợi nhiều nhất là do người ta dựa trên một vài nghiên cứu được công bố của các chuyên gia, chủ yếu là ở Hoa Kỳ…Khi so sánh với mức độ hiện nay, Việt Nam có thể có tỉ lệ tăng trưởng cao nhất. Tuy nhiên, tôi cho rằng nếu chỉ nhìn tỉ lệ tăng trưởng cao mà đánh giá Việt Nam được hưởng lợi nhiều nhất thì không đúng, không xác đáng.
Cho nên tôi cho rằng khi nói Việt Nam là nước được hưởng lợi nhiều nhất thì cần phải nói rõ là ‘nếu so sánh về tốc độ tăng trưởng, Việt Nam có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao nhất’ và cần phải nói thêm một vế nữa là ‘do Việt Nam có điểm xuất phát thấp nhất trong các nước thành viên TPP’ để tránh ngộ nhận là vào TPP, Việt Nam là nước được hưởng lợi nhiều nhất.
VOA: Ngoài cái lợi như cơ hội về kinh tế, FDI đổ vào nhiều hơn, có luồng dư luận nói rằng nguy cơ ‘chết’ của doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào TPP là có?
Bà Phạm Chi Lan: Tôi nghĩ cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam vượt lên là hoàn toàn có. Nhưng có vượt lên được hay không và ai thắng, ai thua thì nó phụ thuộc rất lớn vào năng lực bản thân các doanh nghiệp Việt Nam.
Một khía cạnh khác nữa mà tôi cũng muốn nhấn mạnh thêm là đối với đông đảo doanh nghiệp Việt Nam, cơ hội thắng thua còn phụ thuộc vào một phần không kém quan trọng là môi trường kinh doanh mà họ đang có ở đất nước Việt Nam. Điều tôi lo ngại là môi trường kinh doanh ở Việt Nam chưa tốt.
Một điều rất rõ từ trước tới nay là Việt Nam luôn luôn có một hệ thống chính sách, trong đó ưu tiên số 1 dành cho các doanh nghiệp nhà nước, thứ 2 là cho các doanh nghiệp nước ngoài, còn các doanh nghiệp trong nước thì chịu thiệt thòi về nhiều mặt. Bao nhiêu năm chính phủ Việt Nam năm nào cũng cam kết và đưa ra chính sách gọi là ‘tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp’, nhưng năm nào cũng phải nhắc đến ‘tháo gỡ khó khăn’, có nghĩa là những khó khăn đó về môi trường kinh doanh vẫn còn đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Những khó khăn về môi trường kinh doanh thì tự thân từng doanh nghiệp không làm được. Nó phụ thuộc vào nỗ lực của Việt Nam trong cải cách thể chế, tạo môi trường kinh doanh tốt đẹp, thuận lợi và công bằng với các doanh nghiệp. Thành ra tôi lo cho doanh nghiệp Việt Nam là ở cái vế môi trường kinh doanh ở Việt Nam chưa thay đổi được như mong muốn. Do đó, nó gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam vốn dĩ đã tương đối yếu trong tương quan so sánh với các doanh nghiệp nước ngoài. Điều đó có thể làm cho một số doanh nghiệp Việt Nam không những không nắm được cơ hội mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khác, mà họ lại chịu sức ép ngay trên ‘sân nhà’, tức là ngay ở thị trường Việt Nam.
Những khó khăn về môi trường kinh doanh thì tự thân từng doanh nghiệp không làm được. Nó phụ thuộc vào nỗ lực của Việt Nam trong cải cách thể chế, tạo môi trường kinh doanh tốt đẹp, thuận lợi và công bằng với các doanh nghiệp. Thành ra tôi lo cho doanh nghiệp Việt Nam là ở cái vế môi trường kinh doanh ở Việt Nam chưa thay đổi được như mong muốn. Do đó, nó gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam vốn dĩ đã tương đối yếu trong tương quan so sánh với các doanh nghiệp nước ngoài. Điều đó có thể làm cho một số doanh nghiệp Việt Nam không những không nắm được cơ hội mở rộng xuất khẩu sang các thị trường khác, mà họ lại chịu sức ép ngay trên ‘sân nhà’, tức là ngay ở thị trường Việt Nam.
VOA: Bà có nhắc đến vấn đề cải cách, theo bà, khả năng ràng buộc của TPP đối với vấn đề cải cách ở Việt Nam là như thế nào?
Bà Phạm Chi Lan: Đối với tôi, điều số một ý nghĩa của TPP đối với Việt Nam là chuyện cải cách thể chế. Đó vừa là cơ hội, vừa là thách thức rất lớn cho Việt Nam. Nói chung ai cũng biết TPP yêu cầu về nhiều mặt chứ không phải chỉ thương mại. Nó đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi khá nhiều các điều luật, quy định, chính sách hiện có trong nước. Thay đổi này cũng là nhu cầu tự thân của nền kinh tế Việt Nam. Cho nên đối với Việt Nam, TPP là cơ hội đầy ý nghĩa là nó đặt ra cho Việt Nam thêm yêu cầu về cải cách thể chế, không chỉ là làm cho thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam theo cách thị trường Việt Nam, mà nó đòi hỏi Việt Nam phải theo chuẩn mực chung của kinh tế thị trường theo quan niệm như các nước thành viên khác của TPP hiểu và đã đưa vào cam kết của hiệp định. Tôi cho đó là thuận lợi.
Nhưng thách thức nằm ở chỗ những điều kiện đó là những điều kiện rất khó đối với Việt Nam. Cải cách để có được thể chế kinh tế thị trường đầy đủ được nhiều chuyên gia coi là một cuộc đổi mới lần 2 mà Việt Nam cần tiến hành. Tuy nhiên, cuộc đổi mới lần 2 này muốn tiến hành hoàn toàn không dễ dàng vì nói gặp phải hàng loạt rào cản các mặt, kể cả tư duy, nhận thức của những người quyết định chính sách hoặc quyết định khuôn khổ luật pháp ở Việt Nam, đặc biệt có sự trở ngại của các nhóm lợi ích ở Việt Nam.
Trước đây khi Việt Nam bắt đầu cải cách cách đây 30 năm thì đổi mới đạt được sự đồng thuận cao bởi vì tất cả mọi người đều có thể được hưởng lợi từ sự đổi mới. Nhưng bây giờ, khi Việt Nam cải cách sang một hệ thống thị trường đầy đủ hơn, minh bạch hơn thì lợi ích của một số nhóm lợi ích hiện nay sẽ bị ảnh hưởng. Cho nên họ sẽ chống lại chứ không dễ dàng chấp thuận việc cải cách vì lợi ích chung của cả nền kinh tế hay vì lợi ích của đông đảo người dân.
Thực tế trong thời gian vừa qua, ngay cả các vị lãnh đạo cao nhất cũng thừa nhận tình trạng ở Việt Nam có các nhóm lợi ích nổi lên và nó trở thành một trở ngại cho phát triển. Thế thì Việt Nam phải vượt qua những lợi ích đó thôi chứ không có cách nào khác.
VOA: Bà vừa nói đến các nhóm lợi ích ở Việt Nam, nhiều người xem TPP là một sân chơi mà Việt Nam mới gia nhập, bà dự đoán lối chơi của Việt Nam sẽ như thế nào trong điều kiện mà đội chơi của Việt Nam như bà nói là sẽ có sự phản kháng từ phía các nhóm lợi ích?
Bà Phạm Chi Lan: Mong muốn cải cách ở các nước, nhìn chung, là để cho đông đảo người dân được hưởng lợi. Tuy nhiên thế nào cũng có những nhóm nhất định bị tác động tiêu cực, họ bị ảnh hưởng, họ coi là họ bị thua thiệt trong cải cách. Nhưng như vậy là buộc phải đặt lợi ích của đông đảo người dân lên trên, lợi ích của toàn thể nền kinh tế lên trên để thực hiện được cải cách. Việt Nam cũng không loại trừ khỏi quy luật đó. Thực tế trong thời gian vừa qua, ngay cả các vị lãnh đạo cao nhất cũng thừa nhận tình trạng ở Việt Nam có các nhóm lợi ích nổi lên và nó trở thành một trở ngại cho phát triển. Thế thì Việt Nam phải vượt qua những lợi ích đó thôi chứ không có cách nào khác. Nếu không vượt qua được thì chính Việt Nam không phát triển nổi chứ chưa nói đến chuyện tham gia TPP một cách đầy đủ hơn.
VOA: Vâng. Người ta nói Hoa Kỳ dùng TPP như là một cách để ‘xoay trục về châu Á’, ‘đối trọng kinh tế với Trung Quốc’. Thế thì Việt Nam ở giữa 2 cường quốc lớn, theo bà, đường lối khôn ngoan của Việt Nam nên thực hiện là như thế nào?
Bà Phạm Chi Lan: Việt Nam với tư cách là một nước nhỏ, trong quan hệ với các nước lớn thì luôn luôn phải coi trọng quan hệ với từng nước lớn một, cố gắng làm sao để giữ quan hệ hòa hiếu, tốt đẹp với họ. Đồng thời, Việt Nam cũng rất cần phải quan sát các nước lớn đang quan hệ với nhau như thế nào, đang chơi với nhau như thế nào, để giữ quan hệ của mình hợp lý hơn. Việt Nam không chỉ có TPP, trước khi kết thúc việc đàm phán TPP, Việt Nam đã kết thúc được đàm phán FTA với Liên minh Châu Âu, với Nga. Đấy cũng là những đối tác chiến lược vô cùng quan trọng của Việt Nam. Ở đây, sự khôn ngoan của Việt Nam là biết chơi với nhiều nước khác nhau để tạo cho mình một vị thế tốt trong quan hệ với các nước lớn trên thế giới.
VOA: Vâng. Cám ơn bà Phạm Chi Lan đã dành thời gian cho đài VOA.
Bà Hillary lên tiếng phản đối TPP
(Quốc tế) - Đây có thể coi là một đòn giáng mạnh vào nỗ lực vận động cho TPP của chính quyền Tổng thống Mỹ Barack Obama.
Ứng viên Tổng thống của đảng Dân chủ Hillary Clinton hôm qua 7/10 lên tiếng phản đối Hiệp định đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) chỉ 2 ngày sau khi các bên đạt được thỏa thuận.

Phát biểu nhân chiến dịch vận động tranh cử ở Iowa, bà Hillary bày tỏ lo ngại hiệp định sẽ không đủ mạnh để ngăn chặn các hoạt động thao túng tiền tệ hay bảo vệ người tiêu dùng trước làn sóng tăng giá thuốc. “Rủi ro quá cao ngay cả khi chúng ta đã nỗ lực nhất, do đó, hiệp định này sẽ gây bất lợi nhiều hơn là có lợi”, bà Hillary nói.
Đây có thể coi là một đòn giáng mạnh vào nỗ lực vận động cho TPP- một phần trong chiến lược xoay trục sang châu Á của chính quyền Tổng thống Mỹ Barack Obama. Trong suốt thời gian tại nhiệm chức Ngoại trưởng trong chính quyền của ông Obama, bà Hillary luôn ủng hộ TPP, tuy nhiên, chỉ thời gian gần đây bà bắt đầu quay lưng lại với hiệp định này.
Theo giới chuyên gia, động thái của bà Hillary sẽ càng làm tăng khoảng cách giữa bà với các chính sách chủ chốt của chính quyền Obama. Động thái diễn ra trong bối cảnh chiến dịch vận động tranh cử tổng thống của bà Hillary đang đối mặt với thách thức từ các đối thủ khác và nhiều khả năng Phó tổng thống Joe Biden sẽ ra tranh cử.
Tuy nhiên, quan điểm của bà Hillary có thể nhận được sự ủng hộ từ các công đoàn lao động, các nghị sỹ Dân chủ tự do vốn lo ngại TPP sẽ tác động tiêu cực tới thị trường lao động của Mỹ.
Trong một diễn biến liên quan khác, theo nguồn thạo tin, Tổng thống Obama dự kiến sẽ thông báo lên Quốc hội ý định ký thông qua TPP ngay trong tuần này trước khi Quốc hội biểu quyết. Chi tiết nội dung đàm phán TPP có thể được công bố vào đầu tháng 11.
(Theo Tri Thức)


(Kinh tế) - TPP không phải miếng bánh người này ăn sẽ không còn phần người khác, mà giống như nồi cơm Thạch Sach luôn đầy đặn, quan trọng là phải có đủ sức để ăn và ăn được nhiều, Trưởng phòng FTA thuộc VCCI Phùng Thị Lan Phương ví von.
Bà Phùng Thị Lan Phương trao đổi với VnExpress về cơ hội và thách thức với doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia Hiệp định Đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), sau khi vòng đàm phán cuối cùng kết thúc thành công. Phòng FTA là đơn vị trực thuộc Trung tâm WTO và Hội nhập của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) là đầu mối cung cấp thông tin liên quan đến các Hiệp định thương mại tự do theo nhu cầu của doanh nghiệp; thực hiện tư vấn, hướng dẫn hiệp hội, doanh nghiệp xử lý các vụ việc trong hội nhập và tổ chức các hoạt động để tham vấn với Chính phủ trong đàm phán, thực thi các cam kết thương mại quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp.
- Đàm phán TPP vừa kết thúc trong sự phấn khích của Bộ trưởng Thương mại 12 nước. Bà nhìn nhận thế nào về sự kiện này?
– Ngày 5/10/2015 được coi là kỳ tích mới của Việt Nam trên chặng đường hội nhập. Chúng ta đều biết FTA ký với một đối tác đã mở ra nhiều cơ hội. Tham gia TPP là chơi với 12 nước, trong đó có Mỹ, Canada, Mexico, Peru – những quốc gia Việt Nam chưa có FTA, do đó cơ hội là cực kỳ lớn. Đàm phán kết thúc sớm ngày nào thì tốt cho nền kinh tế và doanh nghiệp ngày đó.
TPP cũng là đàm phán khó khăn nhất từ trước tới nay đối với Việt Nam. Đây được đánh giá là hiệp định tiêu chuẩn cao nhất trên thế giới. Trong khi đó, Việt Nam lại là thành viên kém phát triển nhất, nhưng chúng ta đã dám chơi, chủ động chơi và là một trong những thành viên đàm phán tích cực. Điều này cho thấy quyết tâm hội nhập và đổi mới của Việt Nam.
Với việc TPP hoàn tất đàm phán, cùng với FTA Việt Nam – EU, 3 FTA vừa mới ký với Lào, Liên minh kinh tế Á – Âu, Hàn Quốc và Cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập vào cuối năm nay, có thể nói năm 2015 được đánh giá là bước ngoặt, dấu mốc mới cho giai đoạn hội nhập mới của Việt Nam.

Bà Phùng Thị Lan Phương, Trưởng phòng FTA.
- TPP khác gì so với WTO và các FTA Việt Nam đã ký?
– WTO giống như một hiệp định nền cho các quốc gia tham gia vào sân chơi chung toàn cầu, từ đó, nếu một số nước muốn chơi riêng, tạo thuận lợi hơn cho thương mại của nhau thì sẽ ký FTA. Chẳng hạn như với các cam kết về hàng hóa, theo WTO, Việt Nam dỡ bỏ 30% số dòng thuế trong biểu thuế. Với các FTA đã ký, tỷ lệ này là 80-90%.
Tiêu chuẩn của TPP cao hơn nữa. Với hàng hóa, các nước cam kết mở cửa gần 100% các dòng thuế. Và không chỉ hàng hóa, các cam kết về dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ… trong hiệp định cũng rất cao. TPP còn bao gồm cả những vấn đề chưa từng xuất hiện trong một FTA như doanh nghiệp nhà nước.
Vị thế của Việt Nam khi tham gia Hiệp định này cũng khác. Với WTO trước đây, Việt Nam đứng trên cương vị xin gia nhập và đàm phán với các nước, họ đồng ý mới được vào và phải chấp nhận những quy tắc có sẵn trong WTO. Đối với TPP, Việt Nam hoàn toàn chủ động khi là thành viên tham gia ngay từ đầu, có quyền đưa ra đề xuất để cùng đàm phán, trao đổi.
- Quá trình đàm phán diễn ra 5 năm và tưởng chừng có lúc bế tắc, theo bà nguyên nhân tại sao?
– TPP bao gồm 12 nước có trình độ phát triển khác nhau nên cần nhiều thời gian để tìm được tiếng nói chung. Bên cạnh đó, hiệp định có quá nhiều vấn đề, tổng cộng TPP có tới 30 chương bao trùm từ thương mại, dịch vụ, đầu tư, và cả những vấn đề rất mới so với các FTA truyền thống trước đây như lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước. Đây là lý do khiến đàm phán kéo dài và có lúc tưởng chừng bế tắc.
Đàm phán TPP cũng là đàm phán duy nhất có rất nhiều các cuộc gặp mặt lãnh đạo, các phiên họp của các Bộ trưởng các nước thành viên. Điều đó cho thấy hiệp định bao gồm rất nhiều vấn đề phức tạp, nhạy cảm mà chỉ có thể giải quyết được ở cấp lãnh đạo.
- Tại sao Việt Nam – một quốc gia có thu nhập trung bình thấp lại được mời tham gia hiệp định thế kỷ này?
– Việc mời Việt Nam tham gia và chúng ta chấp nhận cuộc chơi này có thể giúp TPP lôi kéo thêm nhiều thành viên, bởi một nước có xuất phát điểm thấp mà vẫn dám chơi thì không lý gì các nước khác lại không gia nhập.
- TPP sẽ mang đến cơ hội như thế nào cho nền kinh tế?
– Với hàng rào thuế quan được gỡ bỏ gần 100%, thương mại hàng hóa giữa Việt Nam với các nước thành viên TPP chắc chắn sẽ được gia tăng đáng kể.
Còn về đầu tư, thực hiện TPP sẽ khiến môi trường kinh doanh của Việt Nam cải thiện theo hướng minh bạch, công bằng và thuận lợi hơn cho cả các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Điều này sẽ giúp tăng cường thu hút vốn ngoại, đặc biệt là từ các nước TPP, trong đó có Mỹ.
Bên cạnh đó, các nhà đầu tư còn nhìn thấy ở Việt Nam 16 FTA mà chúng ta đã ký hoặc đang đàm phán. Cơ hội cho họ không chỉ là ở riêng thị trường các nước TPP mà cả các thị trường mà chúng ta đã có FTA. Chẳng hạn như nếu nhà đầu tư đầu tư sản xuất hàng hóa tại Việt Nam thì khi xuất khẩu sang thị trường các nước ASEAN, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ… cũng được hưởng ưu đãi thuế quan từ các FTA này.
Một cơ hội khác có thể không đo đếm được bằng tiền nhưng lợi ích lại thực sự rất lớn, đó là TPP sẽ là một động lực, một sức ép hợp lý để Việt Nam cải cách thể chế. Bởi nếu thực thi TPP, Việt Nam sẽ phải sửa đổi rất nhiều các quy định pháp luật trong nước, khiến cho môi trường kinh doanh minh bạch, bình đẳng và thuận lợi hơn cho các doanh nghệp…
Sau WTO, tôi kỳ vọng TPP sẽ tạo ra làn sóng cải cách thể chế lần thứ hai, biến áp lực từ bên ngoài thành động lực cải cách ở bên trong. Kết quả là nền kinh tế và các doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi.

TPP sẽ mang lại lợi ích lớn, không đo đếm được bằng tiền là thể chế, môi trường kinh doanh được cải cách.
- Vậy còn thách thức thì sao?
– Cái gì cũng có hai mặt, và FTA là một cuộc chơi có đi có lại, có cơ hội và cả thách thức. Chẳng hạn như đối tác dành cho ta các cơ hội về tiếp cận thị trường, thì đổi lại ta cũng phải mở cửa thị trường cho họ, khi đó sẽ là thách thức đối với doanh nghiệp trong nước khi phải cạnh tranh với hàng hóa và dịch vụ từ nước ngoài.
Còn về đầu tư, cũng có ý kiến cho rằng miếng bánh to của TPP sẽ thuộc về các doanh nghiệp ngoại (FDI), bởi họ có nguồn lực mạnh và khả năng tận dụng FTA tốt hơn. Còn các doanh nghiệp trong nước, với trên 90% là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, sẽ chỉ giành được miếng bánh nhỏ và siêu nhỏ. Tuy nhiên, theo tôi miếng bánh TPP giống như nồi cơm Thạch Sanh, không phải FDI ăn hết thì không còn gì cho doanh nghiệp nội địa, mà miếng bánh sẽ luôn đầy đặn cho cả hai, vấn đề là có đủ điều kiện để được ăn và ăn được nhiều hay không.
Dĩ nhiên, trong quá trình đó, doanh nghiệp nào làm không đúng cách thì sẽ bị tổn hại, doanh nghiệp đúng cách thì phát triển thịnh vượng. Suy cho cùng đó cũng là một hình thức sàng lọc tự nhiên, chúng ta đã tham gia vào sân chơi toàn cầu thì phải chấp nhận cuộc chơi, chấp nhận có được, có mất, không thể thắng hoàn toàn. TPP là cơ hội doanh nghiệp trải nghiệm và vươn lên.
- Ngoài các thách thức ở thị trường nội địa, thì khi xuất khẩu sang các nước TPP phải đối mặt với những thách thức gì?
– TPP giúp các doanh nghiệp gỡ bỏ các hàng rào thuế quan khi xuất khẩu sang thị trường khu vực, nhưng vẫn còn đó các rào cản về quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn dịch tễ và đặc biệt là các vụ kiện phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ). Như chúng ta đã biết, cho tới nay Mỹ đã tiến hành 16 vụ kiện phòng vệ thương mại đối với hàng hóa của Việt Nam. Nếu thực thi TPP mà hàng hóa của chúng ta xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhiều hơn, thì nguy cơ bị kiện cũng sẽ lớn hơn. Tương tự ở các thị trường khác trong TPP cũng vậy.
- Bà đánh giá thế nào về sự sẵn sàng của doanh nghiệp với TPP?
– Ở VCCI, tôi đã làm việc và tư vấn cho rất nhiều doanh nghiệp, thì thấy đa số họ rất bị động và hầu như không biết tới các FTA Việt Nam đã ký. Ví dụ, có doanh nghiệp làm ăn với Nhật Bản nhưng chỉ khi đối tác yêu cầu doanh nghiệp xin C/O để hưởng ưu đãi theo FTA ASEAN – Nhật Bản thì mới biết có FTA này.
Một bộ phận khác dù biết tới FTA, nhưng họ không biết cách tận dụng thế nào, hoặc để tận dụng được thì phức tạp và tốn chi phí nên lại chuyển sang xuất khẩu theo thuế MFN như bình thường. Từ đó, có thể thấy là doanh nghiệp của chúng ta đã bỏ phí rất nhiều FTA mà Chính phủ đã tốn bao công đàm phán.
Còn đối với các FTA mới của Việt Nam, đặc biệt là TPP, các doanh nghiệp thể hiện sự quan tâm rõ ràng hơn, nhưng có vẻ vẫn chỉ dừng ở việc biết tới chứ chưa thực sự hiểu TPP là gì. Nhiều doanh nghiệp gọi điện đến Trung tâm WTO và Hội nhập của VCCI để hỏi về TPP, nhưng các câu hỏi chủ yếu xoay quanh việc bao giờ TPP được ký kết/có hiệu lực, cam kết về thuế trong TPP sẽ như thế nào? Các cam kết khác, cũng rất quan trọng và có tác động tới doanh nghiệp như như lao động, môi trường, sở hữu trí tuệ…. thì vẫn chưa biết đến hoặc chưa quan tâm.
Hơn nữa, tôi nhận thấy các doanh nghiệp quan tâm nhiều tới TPP lại chủ yếu là khối FDI, một số doanh nghiệp lớn ở các thành phố lớn như Hà Nội và Hồ Chí Minh, còn các doanh nghiệp nhỏ, ở các địa phương, hầu như không biết tới hoặc không hiểu TPP là gì.
- Điều này sẽ ảnh hưởng thế nào tới quá trình triển khai, thực thi hiệp định cũng như tận dụng các cơ hội, thưa bà?
– Nếu TPP được ký kết và có hiệu lực, Việt Nam sẽ phải sửa đổi các quy định pháp luật cho phù hợp với các cam kết của TPP. Mặc dù công việc này là của các cơ quan nhà nước, nhưng các ý kiến góp ý của doanh nghiệp là rất quan trọng để các quy định pháp luật được sửa đổi vừa phù hợp với TPP lại vừa có lợi cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không hiểu rõ về TPP và không có tham vấn với cơ quan nhà nước, thì có thể những quy định mới đưa ra sẽ không phản ánh được các nhu cầu và lợi ích của doanh nghiệp.
Và quan trọng hơn, nếu không biết và không hiểu về TPP, doanh nghiệp sẽ không biết đến các lợi ích mà TPP có thể đem lại hoặc không biết cách tận dụng các lợi ích đó. Tôi lấy ví dụ như doanh nghiệp khi xuất khẩu hàng sang Mỹ mà không biết đến TPP có quy định cắt giảm thuế quan đối với mặt hàng xuất khẩu của mình, hay quy tắc xuất xứ thì vẫn xuất khẩu theo cách thông thường, áp dụng thuế MFN, thì không được hưởng lợi từ thuế ưu đãi theo TPP.
- Theo bà, các doanh nghiệp Việt Nam cần làm gì để có thể sớm tận dụng được TPP một khi được ký kết và có hiệu lực?
– Để có thể cạnh tranh tốt, tận dụng các cơ hội và vượt qua những thách thức từ các FTA thì trước hết doanh nghiệp phải hiểu kỹ về TPP, về những tác động của hiệp định với các hoạt động của mình. Rút kinh nghiệm từ bài học WTO và các FTA trước đây, đối với TPP và các FTA mới của Việt Nam, doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu thông tin, nội dung đàm phán từ khi hiệp định chưa được ký kết để có bước chuẩn bị và tận dụng ngay khi hiệp định có hiệu lực.
Trên cơ sở phân tích các thông tin thu được, doanh nghiệp có thể chủ động xây dựng chiến lược sản xuất, chiến lược sản phẩm sao cho tận dụng được các cơ hội từ FTA cũng như tránh được hoặc vượt qua những thách thức cạnh tranh từ các đối thủ nước ngoài.
Một điểm tôi cũng rất lưu ý với doanh nghiệp, đó là “buôn có bạn, bán có phường”, kinh doanh ở thị trường nước ngoài, cạnh tranh với đối tác nước ngoài lại càng cần phải có sự liên kết giữa các doanh nghiệp, với các hiệp hội. Đây dường như là cách thức rất tốt để doanh nghiệp tận dụng hiệu quả cơ hội từ các FTA sắp tới.
Trên tất cả, doanh nghiệp phải tự tìm cho mình cách thức để cải thiện năng lực cạnh tranh, tìm được thị trường ngách để có chỗ đứng bền vững. Đây luôn là bài toán đặt ra ở bất kỳ thời điểm nào đối với các doanh nghiệp, nhưng trong bối cảnh mới của TPP và các FTA mới, đòi hỏi này lớn hơn bao giờ hết.
(Theo Vnexpress)

(Kinh tế) - Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius khẳng định, TPP thể hiện một bước tiến quan trọng nhằm tăng cường quan hệ kinh tế giữa hai nước Việt Nam và Mỹ.
“Tôi rất vui mừng về việc kết thúc thành công các cuộc đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Xin chúc mừng các đoàn đàm phán của chúng ta đã làm việc vất vả trong thời gian dài để đạt được điều này”, thông cáo báo chí của Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội dẫn lời ông Osius cho biết.
Theo ngài Đại sứ, với thành tích ấn tượng này, Mỹ và Việt Nam sẵn sàng trở thành đối tác trong một khối thương mại đại diện cho gần 40% GDP toàn cầu.

Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius.
“TPP là một hiệp định thương mại cân bằng, đầy tham vọng, toàn diện, và tiêu chuẩn cao. Hiệp định thể hiện một bước tiến quan trọng nhằm tăng cường quan hệ kinh tế giữa hai nước cũng như thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ song phương trong năm kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ”, ông Osius chia sẻ.
Vị đại sứ khẳng định, Mỹ mong muốn được hợp tác với các đối tác ở Việt Nam và các nước thành viên TPP khác để thực thi hiệp định lịch sử này. Hiệp định có sức mạnh hỗ trợ việc làm, tạo ra những cơ hội mới, thúc đẩy một hệ thống kinh tế toàn cầu công bằng, và thay đổi cuộc sống của hàng trăm triệu người để đảm bảo tiếp tục có hòa bình và ổn định trong một thế giới thay đổi nhanh chóng.
Trước đó, tại cuộc họp báo ở tư dinh cuối tháng 6 vừa qua, Đại sứ Osius khẳng định Việt Nam được hưởng lợi rất lớn từ TPP.
“TPP mang lại rất nhiều lợi ích cho Việt Nam, trong đó rõ ràng nhất là GDP hàng năm có thể tăng 30%. Việc tham gia vào hiệp định này sẽ giúp Việt Nam đạt được mục tiêu hội nhập quốc tế toàn diện”, ông nói.
Nigel Cory, Trưởng bộ phận Nghiên cứu về Đông Nam Á của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), cho rằng ngành may mặc là ví dụ điển hình cho tác động của TPP tới Việt Nam. Hiệp định sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu may mặc và giày dép của Việt Nam đạt 165 tỷ USD tới trước năm 2025. Nếu không có TPP, con số này chỉ dừng ở mức 113 tỷ USD.
Khi TPP có hiệu lực, mức thuế suất hàng dệt may từ Việt Nam sang Mỹ có thể giảm xuống gần bằng 0%, thay vì 17% như hiện nay. Trước đó, Mỹ và Việt Nam cũng cơ bản hoàn tất các đàm phán xung quanh tiến trình giảm thuế đối với mặt hàng xuất khẩu được coi là thế mạnh của Việt Nam.
(Theo Tri Thức)

(Kinh tế) - Tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam bớt lệ thuộc vào một thị trường nhất định, cụ thể là Trung Quốc.

Bà Virginia Foote (thành viên đoàn đàm phán TPP của Mỹ, nguyên chủ tịch Hội đồng thương mại Việt – Mỹ)
Bà Virginia Foote (thành viên đoàn đàm phán TPP của Mỹ, nguyên chủ tịch Hội đồng thương mại Việt – Mỹ) nói:
Là người trực tiếp tham gia quá trình Việt Nam ký Hiệp định thương mại song phương (BTA) với Mỹ, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và nay là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), tôi nghĩ hiệp định này sẽ mang lại rất nhiều lợi ích cho Việt Nam.
Thứ nhất, các mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam như dệt may, da giày, nông sản sẽ được cắt giảm thuế mạnh. TPP còn giúp gia tăng thương mại và nguồn đầu tư, không chỉ từ nước Mỹ. Tuy vậy, để đáp ứng yêu cầu về xuất xứ sản phẩm “từ sợi trở đi” trong ngành dệt may sẽ là một thách thức to lớn đối với Việt Nam.
Nếu như thành lập các công ty, cơ sở sản xuất dầu thì không cần nhiều hàm lượng công nghệ, nhưng nếu thành lập các cơ sở chế biến những phụ liệu, phụ kiện dệt may ngay trong nước để đáp ứng yêu cầu về nguồn gốc sản phẩm thì cần vốn đầu tư rất lớn để mua các thiết bị đắt đỏ, thuê kỹ sư, nhân công giỏi.
Thứ hai, giờ các doanh nghiệp Việt Nam phải hoạt động theo tiêu chuẩn quốc tế cao, qua đó các công ty Việt Nam có thể học hỏi nhiều từ các kênh cung ứng hàng hóa. Chẳng hạn Việt Nam sản xuất rất nhiều loại vải nhưng chất lượng chưa cao. Tham gia TPP, các doanh nghiệp này buộc phải nâng cấp công nghệ.
Ngoài ra, tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam bớt lệ thuộc vào một thị trường nhất định, cụ thể là Trung Quốc.
Theo tôi, tốt nhất Việt Nam đừng nên phụ thuộc vào một ai cả trong cuộc chơi hội nhập quốc tế hiện nay.
(Theo Tuổi Trẻ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét